Ngày 19 tháng 3 năm 2010 Hội nghị BCHTW Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ lần thứ VI khoá VI đã họp tại Viện KHCN Mỏ, Hà Nội dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hội –Ông Đoàn Văn Kiển và các Phó Chủ tịch Hội TSKH Đinh Ngọc Đăng và TSKH Phùng Mạnh Đắc
HỘI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ MỎ VIỆT
NAM
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------
Hà Nội, ngày 19
tháng 03
năm 2010
|
BÁO CÁO CỦA THƯỜNG VỤ TW HỘI
TẠI HỘI NGHỊ BCHTW HỘI LẦN THỨ VI KHOÁ VI
VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NĂM 2009
VÀ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC NĂM 2010
---------------------------------------------
Kính thưa các đ/c Uỷ viên trung ương hội.
Hôm nay trong không khí ấm áp của mùa xuân năm Canh Dần, chúng ta họp mặt tại đây để cùng nhau điểm lại những kết quả đạt được của năm 2009 và bàn chương trình công tác của năm 2010, năm cuối của nhiệm kỳ thứ VI của Hội. Thay mặt BCHTW Hội tôi nhiệt liệt chào mừng và gửi đến các đ/c và gia đình lời chúc một năm mới sức khoẻ, an khang, thịnh vượng.
Sau đây được sự phân công của Thường vụ TW Hội, tôi xin trình bày bản báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2009 và dự kiến chương trình công tác năm 2010 của Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam:
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC NĂM 2009
1-Về tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của Hội trong thời kỳ hội nhập:
- Thực hiện nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ V, tháng 3 năm 2009, Thường vụ trung ương hội đã cử một đoàn cán bộ của Hội đi họp Hội nghị BCH Hội Mỏ thế giới (IOC) tại Sint Petersburg - Cộng hoà Liên bang Nga. Tại hội nghị, BCH Hội mỏ thế giới đã nhất trí ủng hội Hội Mỏ Việt Nam đăng cai Hội nghị BCH Hội mỏ thế giới (IOC) lần thứ 91 tại thành phố Hạ Long của Việt Nam vào thời
gian từ 22 đến 25 tháng 9 năm 2010.
- Trung ương Hội đã tích cực vận động và phối hợp với Hội Mỏ Ba Lan, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Trường Đại học Mỏ - Địa chất để tổ chức Hội nghị KHKT mỏ quốc tế vào tháng 9 năm 2010, cùng vào dịp Hội ta đăng cai tổ chức Hội nghị IOC lần thứ 91 tại thành phố Hạ Long. Đến nay, chủ đề và những nội dung chủ yếu của Hội nghị đã được gủi đến các thành viên của BCH Hội Mỏ Thế giới và hàng trăm nhà khoa học về mỏ của các nước.
2-Về hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
:
1- Hội đã ký hợp đồng với các Cơ quan Nhà nước và tổ chức nghiên cứu một số đề tài khoa học, công nghệ. Trong năm 2009 đã hoàn thành hai đề tài nghiên cứu do Bộ Công Thương giao cho Hội: Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện một số chính sách đối với ngành Công nghiệp khai khoáng phù hợp với thời kỳ hội nhập”. Đề tài do PGS - TS Nguyễn Cảnh
Nam
làm chủ nhiệm.
Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cung cấp điện ổn định và an toàn cho các mỏ hầm lò Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu thực hiện cơ giới hoá, hiện đại hoá ngành than giai đoạn 2008 - 2025. Đề tài do Bộ Công thương giao và do TS. Đào Đắc Tạo làm chủ nhiệm.
Hai đề tài trên đã được nghiệm thu đạt loại xuất sắc tại Hội đồng Khoa học Bộ Công Thương
2- Từ cuối năm 2009 và năm 2010, Thường trực trung ương hội đang tổ chức thực hiện các đề tài sau do Liên hiệp hội giao cho:
a)Đề tài “Nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững cho ngành công nghiệp khai khoáng Việt
Nam”. Đề tài do Liên hiệp hội giao và do PGS- TS Nguyễn Cảnh
Nam làm chủ nhiệm.
b)Đề án “Tư vấn sửa đổi Luật Khoáng sản Việt
Nam
” do Liên hiệp hội giao và do TS. Trần Trọng Kiên làm chủ nhiệm.
Các đề tài ở mục 2a đang được triển khai, riêng đề án ở mục 2b cần được hoàn thành nhanh trước tháng 4 năm 2010 để phục vụ cho Quốc hội có thêm căn cứ thảo luận và thông qua Luật Khoáng sản sửa đổi vào kỳ họp giữa năm nay.
3- Điều đáng quan tâm là đề tài “Nghiên cứu khả năng ứng dụng máy lắng lưới chuyển động để tuyển than chất lượng xấu ở vùng mỏ Quảng Ninh” do TS. Phạm Hữu Giang làm chủ nhiệm được Hội đồng khoa học của Bộ Công thương nghiệm thu năm 2008 và kiến nghị ứng dụng vào sản xuất. Thường trực trung ương hội đã ký hợp đồng với Công CP than Hà Tu lập Dự án đầu tư hệ thống tuyển bằng máy lắng lưới chuyển động công suất 300.000 tấn/năm, thiết kế Bản vẽ thi công, lập Tổng dự toán. Trung tâm hỗ trợ tiến bộ kỹ thuật mỏ của Hội chủ trì việc chế tạo máy lắng và chỉnh định hệ thống tuyển này đến nay công trình này đã lắp đặt xong tại hiện trường và đang chạy thử,
chỉnh định để đưa vào sản xuất. Đự tài còn được Bộ Công thương cho phép chuyển thành dự án sản xuất thử thuộc chương trình đổi mới công nghệ ngành công nghiệp khoáng sản của Nhà nước do Bộ quản lý.
Với những ưu điểm của công nghệ mới này nếu được ứng dụng thành công sẽ đưa lại những hiệu quả lớn cho doanh nghiệp và tạo ra khả năng tận thu một khối lượng than chất lượng thấp hiện còn tồn đọng khá lớn ở nhiều Công ty than vùng mỏ Quảng Ninh gây lãng phí một khối lượng tài nguyên lớn chưa thu hồi được và đang làm ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi.
Ngoài ra, nhiều cán bộ, hội viên hiện đang làm việc tại các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường đại học, cao đẳng, các doanh nghiệp cũng đã nghiên cứu thành công nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp cơ sở.
3-
Về phổ biến kiến thức:
-
Năm 2009, Hội tổ chức thành công Hội nghị khoa học kỹ thuật mỏ với quy mô toàn quốc lần thứ XX tại thành phố Vũng Tàu. Hội nghị có trên 120 báo cáo được lựa chọn và in vào tuyển tập, có trên 350 đại biểu và
khách mời tham dự, trong đó có hai đoàn khách quốc tế là Đại diện Hội Mỏ Thế giới và Đoàn đại biểu Hội Mỏ Ba Lan gồm 4 thành viên.
-
Hội đã tổ chức xuất bản định kỳ tạp chí Công nghiệp mỏ hoàn thành 6 số/ năm đạt chất lương tốt cả về nôi dung và hình thức. Số 1/2010, số đặc biệt nhân dịp Tế Canh Dần với nhiều nội dung phong phú đã được phát hành.
-
Trang WEBSITE
http://vinamin.vn
của Hội đã duy trì hoạt động tương đối đều với nhiều thông tin đã thu hút nhiều lượt người kể cả trong nước và nước ngoài truy cập, tìm kiếm thông tin trên trang này. Đến nay sau hai năm số lượng người truy cập vào khoảng 200.000 lượt người.
4- Về Công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội:
- Các chuyên gia của Hội được phân công đã tích cực tham gia
Ban soạn thảo Luật khoáng sản sửa đổi do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì.
- Hội cũng đang tích cực tổ chức triển khai thực hiện Đề án Tư vấn và phản biện Luật Khoáng sản để có căn cứ góp ý kiến xây dựng, bổ sung, sửa đổi Luật Khoáng sản phù hợp với yêu cầu thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản trong giai đoạn mới.
- Cùng với việc thực hiện đề án tư vấn, phản biện Luật khoáng sản, Hội còn tổ chức và tham gia thẩm định, phản biện một số Dự án phát triển tại Công ty than Hạ Long, Công ty CP sắt Thạch Khê. Trung tâm Hỗ trợ tiến bộ kỹ thuật mỏ đã tổ chức thẩm định Dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác mỏ than Khe Chàm II-IV theo hợp đồng với Công ty than Hạ Long. Nhiều chi hội đã tổ chức thực hiện tư vấn phản biện nhiều Công trình cấp cơ sở mà chúng tôi sẽ nêu ở phần sau.
5- Về Công tác phát triển hội
:
Hội đã ra quyết định thành lập thêm một chi hội mới (Chi hội Công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường - TKV)
đưa số chi hội của Hội lên 98 chi hội với tổng số gần 4000 hội viên.
Về sinh hoạt theo định kỳ: Ban chấp hành trung ương hội, Ban Thường vụ, Văn phòng hội và các Ban chuyên môn của Hội họp định kỳ theo đúng quy định của Điều lệ Hội và quy chế làm việc của Trung ương hội.
6-
Các công tác khác:
Trung ương Hội đã làm thủ tục xin phép Ban Đối ngoại Trung ương và các cơ quan quản lý nhà nước để tiến hành các bước chuẩn bị cho việc tổ chức Hội nghị khoa học mỏ quốc tế năm 2010 và Hội nghị BCH Hội Mỏ Thế giới lần thứ 91 cũng vào thời điểm diễn ra Hội nghị khoa học mỏ quốc tế tại Quảng Ninh.
Tháng 10/2009 Thường vụ trung ương hội đã cử Đoàn cán bộ đến chia buồn và thăm hỏi những cán bộ công nhân bị tai nạn tại Xí nghiệp than Thành Công thuộc Công ty than Hòn Gai.
7
-Đánh giá chung về hoạt động của Hội:
Năm 2009, nền kinh tế thế giới phần lớn vẫn đang trong thời kỳ suy thoái, là năm có nhiều khó khăn đặc biệt đối với ngành Công nghiệp mỏ Việt
Nam. Thị trường tiêu thụ khoáng sản không ổn định, nhiều loại khoáng sản kim loại giá thấp hơn nhiều so với những năm trước đây, trong khi công việc khai thác ngày càng khó khăn phức tạp hơn. Đây là thời kỳ ngành công nghiệp mỏ nước ta đứng trước những thử thách lớn. Tuy nhiên, do những cố gắng lao động dũng cảm và quên mình của đội ngũ cán bộ, công nhân mỏ, hầu hết các doanh nghiệp mỏ vẫn giữ vững được sản xuất, duy trì ổn định đời sống của công nhân, viên chức của mình, đảm bảo an toàn lao động và bảo vệ môi trường.
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động của Hội vẫn giữ được ổn định, các doanh nghiệp mỏ vẫn ủng hộ Hội trong việc hỗ trợ kinh phí tổ chức Hội nghị khoa học, tham gia quảng cáo trên Tạp chí Công nghiệp mỏ (tuy có ít hơn những năm trước đây) để có kinh phí phục vụ cho công tác biên tập và xuất bản Tạp chí. Mọi hoạt động của Hội vẫn diễn ra bình thường, đoàn kết nhất trí từ Trung ương hội đến các chi hội, phân hội và các hội viên hoạt động trên các địa bàn từ Bắc đến Nam.
Nét nổi bật trong năm qua là:
- Trong quan hệ quốc tế đã để lại một dấu ấn quan trọng, Lần đầu tiên Hội Mỏ Việt Nam đã được các thành viên của BCH Hội Mỏ Thế giới ủng hộ trong việc đăng cai Hội nghi IOC lần thứ 91 tại thành phố Hạ Long.
-
Theo truyền thống thường niên của Hội, năm nay Hội đã tổ chức thành công Hội nghị KHKT mỏ toàn quốc lần thứ XX tại thành phố Vũng Tàu.
- Cử đoàn đại biểu của Hội tham dự Hội nghị BCH Hội Mỏ Thế giới tại Sint Petersburg, Cộng hoà Liên Bang Nga.
- Biên tập và xuất bản đều Tạp chí Công nghiệp mỏ, duy trì trang WEBSITE hoạt động ổn định, thu hút được số người truy cập và tìm kiếm thông tin ngày càng đông.
- Lần đầu tiên Hội đã tổ chức nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới ứng dụng vào sản xuất, trong thời gian ngắn chưa đầy một năm đã chế tạo thành công máy lắng lưới chuyển động để tuyển than chất lượng thấp và đã đưa vào sản xuất công nghiệp, chắc chăn sẽ mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp ngành than.
- Nhìn chung hoạt động của nhiều chi hội đạt được những kết quả tốt và chúng tôi sẽ nêu ở phần sau. Bên cạnh đó vẫn còn một số chi hội sinh hoạt chưa đều, một số chi hội không nộp báo cáo và gửi hội phí về quỹ của Trung ương hội.
- Tồn tại chủ yếu là năm nay do tình hình công việc cuối năm bận rộn, Thường trực trung ương hội không tổ chức được đoàn đến làm việc với các chi hội cơ sở để nắm tình hình hoạt động và trao đổi công việc, Thường trực dự kiến sẽ tổ chức việc này vào đầu quý 2 năm nay.
8- Quyết toán Hội nghị KHKT mỏ lần thứ XX tại Vũng Tàu:
- Tổng thu:
1.187.700.000 đồng
- Tổng chi:
847.791.350 đồng
- Còn dư nhập vào quỹ Hội:
339.908.650 đồng
9- Quyết toán tài chính của Hội năm 2009:
- Tồn quỹ từ năm 2008 chuyển sang:
1.908.602.537 đồng
- Tổng thu trong năm 2009:
1.874.190.580 đồng
- Tổng chi trong năm 2009:
1.787.637.755 đồng
Tồn quỹ đến ngày 31/12/2009:
1.995.155.632 đồng
Trong đó tiền dể lo trụ sở Hội là:
1.447.049.444 đồng
Gồm: -Các đơn vị đóng góp:
1.157.000.000 đồng
: -Lãi gửi tiết kiệm 2 năm:
290.049.444 đồng
*
*
*
Phần thứ hai
CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NĂM 2010
Năm 2010 là năm cuối của nhiệm kỳ VI, Hội cần chuẩn bị thật tốt để tổ chức Đại hội lần thứ VII vào quý IV/2010. Được sự tín nhiệm của các bạn đồng nghiệp trên thế giới, chúng ta cũng cần chuẩn bị chu đáo để tổ chức thành công Hội nghị IOC và Hội nghị KHKT mỏ quốc tế vào tháng 9/2010 tại TP Hạ Long. Do vậy, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải tiến hành rất nhiều công việc chuẩn bị để có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp đối với các bạn đồng nghiệp trên thế giới, cũng là để góp phần quảng bá đất nước và con người Việt
Nam
thân thiện và mến khách.
Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt
Nam
sẽ phấn đấu thực hiện tốt chương trình công tác bao gồm một số nội dung chính sau:
1- Tiếp tục vận động đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ mỏ phát huy trí tuệ và tiềm năng, làm nòng cốt trong việc đưa khoa học, công nghệ tiến bộ vào giải quyết những khó khăn cho ngành Công nghiệp mỏ Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế thế giới chưa được phục hồi hoàn toàn và phát triển bình thường.
2- Chuẩn bị tốt về mọi mặt để tiến hành tổ chức thành công Hội nghị KHKT mỏ quốc tế
vào các ngày từ 22 đến 25 tháng 9 năm 2010 với chủ đề
Công nghiệp mỏ hiện đại vì sự phát triển bền vững
tại thành phố Hạ Long.
3- Hội cũng cần phối hợp với Hội Mỏ Thế giới để chuẩn bị tốt những nội dung của Hội nghị Ban Chấp hành Hội Mỏ Thế giới (IOC) vào ngày 24 tháng 9 trong thời gian diễn ra
Hội nghị KHKT mỏ quốc tế nói trên.
4- Hoàn thành các đề tài, dự án do Liên hiệp hội và Bộ Công Thương giao cho Hội kể cả các dự án đã ký hợp đồng với doanh nghiệp để áp dụng vào sản xuất mỏ.
5- Tổ chức các chuyến đi cơ sở để trao đổi, thu thập thông tin và làm việc với các chi hội trên các địa bàn. Củng cố và nâng cao vai trò hoạt động của một số chi hội hoạt động yếu kém, biểu dương kịp thời các chi hội hoạt động hiệu quả.
6- Biên tập và xuất bản các số Tạp chí Công nghiệp mỏ theo quy định 6 số/năm. Tiếp tục cải tiến để nâng cao hơn nữa chất lượng về cả nội dung và hình thức. Thu thập thông tin, biên tập và đưa lên trang WEBSITE của Hội những thông tin về chuẩn bị Hội nghị khoa học quốc tế năm 2010, những thông tin có ý nghĩa thiết thực đối với Công nghiệp mỏ, nhất là những thông tin chuyên ngành được nhiều người quan tâm kể cả trong nước và nước ngoài.
7- Tham gia tư vấn, phản biện, thẩm định, góp ý kiến các văn bản pháp luật, các quy phạm, tiêu chuẩn, các dự án lớn khi được các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và các doanh nghiệp yêu cầu. Thực hiện tốt đề án Tư vấn và phản biện dự thảo Luật Khoáng sản sửa đổi hoàn thành trong quý I năm 2010 để kịp trình quốc hội vào giữa năm 2010. Đây là một việc quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến cả ngành công nghiệp mỏ nước nhà
.
8- Tổ chức khen thưởng các tổ chức và hội viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Hội. Đề nghị Chính phủ khen thưởng Hội Mỏ Việt Nam với hình thức Bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ để chuẩn bị cho khoá sau có cơ sở đề nghị Nhà nước tiếp tục khen thưởng cho Hội.
9- Tiếp tục phát triển các chi hội ở những cơ quan, doanh nghiệp chưa có chi hội.
10- Làm tốt công tác chuẩn bị để tổ chức thành công Đại hội lần thứ VII của Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam sẽ được tổ chức vào quý IV, sau Hội nghị Khoa học kỹ thuật mỏ quốc tế năm 2010.
Trên đây là những điểm chính trong chương trình hoạt động của Hội trong năm nay; đề nghị các đ/c Uỷ viên Trung ương hội có ý kiến trao đổi, thảo luận để những hoạt động của hội năm 2010 thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Đặc biệt là để chúng ta tổ chức thành công những công việc lớn của Hội trong năm nay.
Xin trân trọng cảm ơn các đ/c.
Phụ lục I
: TÓM TẮT HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ CHI HỘI ĐIỂN HÌNH
1-
Chi hội Công ty CP than Núi Béo:
Năm 2009, Công ty than Núi Béo tiếp tục mở rộng sản xuất, đầu tư bổ sung thiết bị và phát huy tối đa những nguồn lực hiện có và đã lập kỷ lục cao nhất đạt 5,1 triệu tấn than và bốc đất 21,3 triệu m
3
, đứng đầu ngành than về sản lượng, góp phần hoàn thành xuất sắc kế hoạch sản xuất kinh doanh của Tập đoàn TKV. Trong đó phải kể đến vai trò và sự đóng góp của của Chi hội KHCN Mỏ về việc đề xuất ứng dụng KHCN, hợp lý hoá sản xuất phù hợp với điều địa chất kỹ thuật mỏ của Công ty như sử dụng máy xúc có dung tíc gầu xúc 2,5 m
3
để khai thác chọn lọc, nghiên cứu lập quy hoạch đổ thải, nghiên cứu mở rộng khai thác lộ thiên ổn địn, lâu dài, áp dụng các phần mềm tin học vào công tác đo vẽ, tính toán khối lượng mỏ, tổ chức nghiên cứu dự án khai thác hầm lò; trồng cây bổ sung trên bãi thải và các khu đất trống để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Chi hội duy trì sinh hoạt đều dặn và hướng hoạt động vào vào những công việc cụ thể, thiết thực để hoàn thành nhiệm vụ của doanh nghiệp.
2-
Chi hội Công ty CP than Hà Lầm:
Hiện tại chi hội có 56 hội viên hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau của Công ty, tích cực tham gia đóng góp ý kiến và đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện kỹ thuật của Công ty như áp dụng công nghệ cơ giới hoá vận chuyển người và vật tư, thiết bị góp phần nâng cao năng suất, đảm bảo an toàn trong quá trình vận tải, cải thiện điều kiện đi lại và làm việc giảm ách tắc sản xuất và chi phí sản xuất cho doanh nghiệp; đề xuất thay đổi phương án mở vỉa mức – 150m để hợp lý hoá sản xuất; thiết kế, chỉ đạo thi công xúc bốc tầng từ mức +45 đến +30m cánh tây khu vực vỉa 14 cho phép giảm cung độ vận chuyển so với thiết kế ban đầu đến trên 250m; đề xuất là lập biện pháp thi công kho mìn ngầm mức -50 vào sử dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp phát, giảm khoảng cách vận chuyển VLNCN. Áp dụng thiết bị định vị toàn cầu GPS vào việc xây dựng mốc ranh giới quản lý tài nguyên khoáng sản mỏ đạt độ chính xác cao và một số công việc khác phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh của Công ty.
3-
Chi hội Công ty CP than Cao Sơn:
Chi hội hiện có 50 hội viên bao gồm cán bộ KHCN thuộc các chuyên ngành Khai thác, Cơ điện và Vận tải mỏ. Với đặc điểm của Công ty là một mỏ có trữ lượng tài nguyên lớn, chất lượng than tốt nhưng điều kiện địa chất phức tạp, kiến tạo không ổn định do có nhiều đứt gãy, một số tầng trượt lở mạnh, đất đá có độ rắn cao (ftb=11,67), khai thác ngày càng xuống sâu, cung độ vận chuyển đất đá dài trên 3,2km và chiều cao vận chuyển lớn. Hầu hết thiết bị chủ lực của Công ty do Liên Xô chế tạo từ những năm 70 của thế ký trước nay đã xuống cấp, năng suất thấp, mặc dù Công ty đã đầu tư thêm nhiều thiết bị hiện đại nhưng nhìn chung vẫn chưa được đồng bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất. Chi hội Khoa học công nghệ mỏ của Công ty đã tích cự hoạt động và đã có những đóng góp lớn cho hoạt động sản xuất của Công ty như cân đối giữa khai thác than và bóc đất, đảm bảo chất lượng than, trong năm Chi hội dã có 287 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và tiết kiệm chi phí góp phần quan trọng trong việc khai thác 3,1 triệu tấn than và bốc xúc vận tải 26,8 triệu m
3
đất đá hoàn thành kế hoạch do Tập đoàn CN Than – Khoáng sản giao cho. Chi hội giữ được nền nếp sinh hoạt theo quy định và phối hợp chặt chẽ với Chuyên môn, Công đoàn, Đoàn thanh niên và quan tâm đế kết quả công tác của từng hội viên.
4-
Chi hội Trung tâm Cấp cứu mỏ
Với đặc điểm là đơn vị hoạt động đặc biệt trong lĩnh vực an toàn là kiểm tra giám sát về an toàn mỏ, cùng với các đơn vị khai thác và xây dựng mỏ phòng ngừa không để xảy ra sự cố và thường trực giải quyết sự cố trong 24/24 giờ trong ngày với hiệu quả cao nhất. Với 17 hội viên làm việc ở những khâu quan trọng, nòng cốt trong hoạt động của đơn vị, chi hội đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thành xuất sác nhiệm vụ của Trung tâm. Đã giải quyết nhiều sự cố đạt hiệu quả cao đặc biệt như sự cố xuất khí CH‑4 tại Công ty than Khe Chàm; sự cố bục nước lò tư nhân tại xã Việt Hưng – TP Hạ Long (4/2009); sự cố cháy nội sinh V. 24 Tràng Khê – Công ty than Hồng Thái(6/2009 đến nay); sự cố bục nước tại vỉa 8 Đông Bình Minh – XN Thành Công, Công ty than Hòn Gai (10/2009); sự cố đổ lò Công ty Xây dựng mỏ hầm là cứu thoát 4 công nhân (10/2009). Ngoài những công việc cấp cứu khẩn cấp nói trên, Chi hội còn tham mưu cho giám đốc tổ chức thực hiện và áp dụng nhiều giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát phòng ngừa sự cố mỏ; lấy mẫu khí, phân tích khí phục vụ phân hạng mỏ theo cấp hạng khí mêtan, thoả thuận kế hoạch thủ tiêu sự cố định kỳ hàng quý cho 29 đơn vị mỏ hầm lò; tổ chức hội thao cấp cứu mỏ bán chuyên; tổ chức nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm các thiết bị an toàn mới như máy thở, xe cứu hoả tích hợp nhiều vật liệu chữa cháy, bơm chìm, bơm cạn sử dụng cho việc giải quyết sự cố bục nước, cháy mỏ hầm lò và các thiết bị chuyên ngành khác; trong năm chi hội có 28 đề tài, sáng kiến được công nhận.
5-
Chi hội Tổng công ty Đông Bắc:
Được sự quan tâm và tạo điều kiện của Lãnh đạo, chỉ huy Tổng công ty, năm 2009 Chi hội KH&CN mỏ của Tổng công ty đã vận động cán bộ, hội viên phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo hoàn tốt các yêu cầu nhiệm vụ của năm, tích cực tham mưu cho Lãnh đạo chỉ huy và các cơ quan chuyên môn Tổng công ty trong việc áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào sản xuất như áp dụng khai thác lò chợ bằng giá thuỷ lực dạng khung tại vỉa 9 cánh Tây mỏ Bắc Quảng Lợi, vỉa 7 Tây Nam Khe Tam, vỉa 5 Mỏ Khe Chuối… đã tăng cao năng suất khai thác và năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tận thu triệt để tài nguyên, đảm bảo an toàn sản xuất. Chi hội tham mưu cho Lãnh đạo hệ thống tự động giám sát khí mêtan tại các mỏ hầm lò Đồng Rì, mỏ Tây Bắc Ngã Hai, mỏ Nam Khe Tam, mỏ Khe Chuối…Chi hội duy trì chế độ sinh hoạt định kỳ theo Điều lệ của Hội, hoạt động của Chi hội đã mang lại hiệu quả thiết thực đối với việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật mỏ vào sản xuất của Tổng công ty.
6-
Chi hội Công ty CP than Đèo Nai:
Năm 2009 là năm thứ 3 Công ty thực hiện cổ phần hoá, tuy điều kiện khai thác gặp nhiều khó khăn, nhưng do những cố gắng của Chi hội và hội viên đã góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ khai thác 2,89 triệu tấn than và bốc xúc vận tải 20,325 triệu m
3
. thu nhập bình quân đạt 5 triệu đồng/người, tháng. Trong năm qua Công ty đã tập trung giải quyết thành công một số nhiệm vụ chính sau: Duy trì và phát huy tối đa năng lực các thiết bị hiện có, đầu tư phục hồi thiết bị đã hết khấu hao, gia công cụm phòng để chủ động giải quyết khó khăn cho sản xuât. Thường xuyên bám sát các yêu cầu thực tế để thực hiện các phương án kỹ thuật đã đề ra, đảm bảo các yêu cầu về tiến độ, năng suất, an toàn và bảo vệ môi trường. Đầu tư thêm thiết bị vận tải mới, nâng cao chất lượng làm đường mỏ phù hợp với điều kiện của thiết bị vận tải giải phóng tốc độ, nâng cao năng suất vận tải. Hoạt động của Chi hội đã đi vào các lĩnh vực như nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiến bộ, khuyến khích phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm phát huy có hiệu quả các thiết b ị công nghệ phục vụ sản xuất. Chi hội được giao một số nhiệm vụ áp dụng KHCN vào sản xuất như: tiếp tục đề án cải tạo bãi thải nam để cải thiện môi trường; hoàn thành phương án di chuyển hố nhận than nguyên khai phù hợp với điều kiện phát triển sản xuất của Công ty, lắp đặt và đưa vào sử dụng tuyến băng tải mới, hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng hệ thống sàng tuyển manhêtitv.v.. Chi hội đã có 291 lượt người phát huy sáng kiến, phát huy 125 sáng kiến, trong đó có 99 sáng kiến được công nhận, làm lợi 11,2 tỷ đồng và được thưởng 50,5 triệu đồng. Chi hội tổ chức sinh hoạt định kỳ theo quy định của Trung ương hội.
7-
Chi hội Công ty than Uông Bí:
Chi hội được Công ty giao nhiệm vụ tập trung nghiên cứu áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện lao động, chủ yếu vào các mặt công tác chính sau: a) Về công nghệ khai thác hầm lò: nghiên cứu, chỉ đạo đưa giàn chống 2ANSH vào lắp đặt và khai thác thử nghiệm tại Công ty than Hồng Thái; đưa giá khung vào lắp đặt chuyển đổi tại các lò chợ vỉa 24 mức +36/+126 Công ty than Hồng Thái, lò chợ vỉa 6A mức +5/+71 và lò chợ vỉa 7 mức+320/+360 Công ty than Đồng Vông; kết hợp với cơ quan tư vấn lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp với điều kiện địa chất mỏ (Cty than Đồng Vông), vỉa 10, vỉa 18 (Cty than Hồng Thái); ứng dụng các công nghệ khai thác cột dài theo hướng dốc, khấu than bằng máy bào, điều khiển đá vách bằng phá hoả hoàn toàn, chống giữ lò bằng giá khung di động GK/1600/1.6/2.4/HTD vào khai thác vỉa than có góc dốc 35
o <α<45o
nâng cao năng suất và an toàn, góp phần giải quyết khó khăn trong khai thác vỉa có chiều dày ≥ 2m (khấu than có hạ trần). b) Về công tác đào lò: đã nghiên cứu đề xuất giải pháp thi công hợp lý các đường lò khai thông, chuẩn bị cho khu vực Hồng Thái, Tràng Khê II, III, áp dụng các công nghệ mới vào công tác đào lò vận tải mỏ, nâng cao hiệu quả sử dụng đường lò. b) áp dụng công nghệ mới vào công tác sàng tuyển, gia công, chế biến than…Chi hội có 55 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, giá trị làm lợi 3,4 tỷ đồng.
8-
Chi hội Công ty CP than Cọc Sáu:
Năm 2009, Chi hội được Giám đốc Công ty giao một số nhiệm vụ chủ yếu của Công ty: Xây dựng kế hoạch kinh tế - kỹ thuật, lựa chọn phương án tối ưu và tổ chức triển khai thực hiện; xây dựng quy chế phối hợp trong việc thực hiện phương hướng kỹ thuật và tổ chức sản xuất giữa các đơn vị trong Công ty. Tổ chức thực hiện đồng thời các phương án sản xuất trọng điểm như: đẩy mạnh khai thác than khu Nam Quảng Lợi để cải tạo hệ thống thoát nước đảm bảo an toàn cho khu dân cư khu vực suối Ông Linh;
thực hiện thắng lợi phương án xúc bùn Động tụ nam với khối lương 430.000m
3
đảm bảo an toàn cho việc khai thác 500.000 tấn than ở moong sâu; tiếp tục hoàn thiện hệ thống đường vận tải trên mỏ, sửa chữa đường mỏ đảm bảo cho hoạt động khai thác trong mùa mưa, góp phần dần dần hoàn thiện hệ thống khai thác, tận thu tài nguyên, giảm vận tải bằng ô tô. Nhờ những cố gắng nói trên năm qua Công ty đã bốc xúc, vận tải 32,6 triệu m
3
và khai thác 3,44 triệu tấn than nguyên khai.
9-
Chi hội Công ty Tuyển than Cửa Ông:
Chi hội hiện có 44 hội viên, tất cả đều là kỹ sư thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, đa số hội viên đều là cán bộ chủ chốt, có trình độ và kinh nghiệm trong công tác; Trong năm qua chi hội đã thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ thể hiên trên một số mặt công việc điển hình sau: Cải tạo đồng bộ hoá công nghệ Nhà máy tuyển than 1: áp dụng công nghệ tuyển lắng - huyền phù thay cho công nghệ tuyển máng rửa nghiêng mở rộng khả năng tuyển thêm nhiều chủng loại than tốt phục vụ nhu cầu phát triển thị trường; xử lý bùn nước nhà máy tuyển: sử dụng công nghệ mới của Trung Quốc thu hội nước bùn của các nhà máy tuyển, tách và thu hồi than cám mịn, thu hồi và sử đụng nước tuần hoàn, đặc biệt là cải thiện môi trường, không để nước thải và tạp chất ra vịnh Bái Tử Long, giảm lượng bụi trong quá trình sản xuất. Tháo dỡ, sửa chữa, phục hồi, lắp dựng máy rót than SL-3 bị sự cố ngày 6/8/2008 và đưa vào khai thác sử dụng. Ngoài ra chi hội còn còn tham gia các công trình áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất như nghiên cứu các điểm đổ thải đá xít,, áp dụng bộ biến tần vào điều khiển các bộ phận chuyển động, áp dụng các thiết bị điều khiển và ứng dụng thiết bị định vị toàn cầu … để tiết kiệm điện năng và đảm bảo an toàn. Chi hội cũng tham mưu cho Lãnh đạo Công ty nhiều ý kiến xác đáng và nhiều sáng kiến có giá trị, với phong trào sáng kiến do chi hội làm nòng cốt, toàn Công ty có 449 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật với tông giá trị làm lợi 2 tỷ đồng, tiền thưởng và hỗ trợ 160 triệu đồng.
10-
Chi hội Công ty than
Nam
Mẫu
:
Trong năm 2009,
Chi hội mỏ Công ty than Nam Mẫu đã lập nhiều thành tich và có nhiều đóng góp xuất sắc vào việc củng cố, phát triển và hoạt động chung của Hội KH&CN Mỏ Việt
Nam
, thể hiện trên một số công việc cụ thể sau:
Tiếp tục cải tiến và áp dụng có hiệu quả công nghệ chống giữ lò bằng cột thuỷ lực đơn đảm bảo công suất lò chợ đạt từ 130 – 150 ngàn tấn/năm, đặc biệt là có hai lò chợ chống giữ bằng giá khung di động HZ1600/16/24Z
đạt sản lượng 250 ngàn đến 270 ngàn tấn/năm. Về công tác đào lò: vẫn duy trì và phát huy tốt các máy xúc đá, than tại các gương lò chuẩn bị sản xuất đạt từ 70 – 90m/tháng. Đưa máy khoan tự hành loại một choòng mã hiệu BRKF-1, máy xúa lật hông mã hiệu CZY-60, cầu truyền tải vào lò giếng để nâng cao tốc độ dào lò đá XV-50 để sớm khai thông phần lò giếng để có thêm sản lượng vào năm 2012. Về công tác vận tải trong lò gặp nhiều khó khăn chi hội đã có nhiều đề xuất cải tiến, đảm bảo hoàn thành tốt công tác vận tải hoàn thành được sản lượng cao của Công ty. Các hội viên của chi hội đã có 232 sáng kiến với tổng giá trị làm lợi trên 4,6 tỷ đồng.
11- Chi hội Viện Khoa học và công nghệ mỏ - Luyện kim
Năm 2009 chi hội của Viện có 50 hội viên, hoạt động tai 3 khu vực: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Thái Nguyên;
trong đó, số hội viên trẻ dưới 35 tuổi tăng lên, chiếm 40%. Về công tác chuyên môn, trong năm chi hội đã chủ động tham gia với Hội trong công tác chuyên môn. Tích cực, chủ động trong công tác nghiên cứu, tư vấn và sản xuất tạo thêm thu nhập cho hội viên. Đã hoàn thành hai đề tài cấp nhà nước: nghiên cứu công nghệ tuyển hợp lý và sản xuất Rutil nhân tạo từ quặng sa khoáng và quặng gốc vùng Núi Chúa – Thái Nguyên; đề tài nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ tuyển hợp lý quặng Cromit và các khoáng sản khác đi kèm trong mỏ Cromít Cổ Định. 10 đề tài cấp bộ với kinh phí 1,535 tỷ đồng, trong đó có những đề tài quan trọng như: Nghiên cứu xây dựng mô hình khai thác-tuyển thô di động sa khoáng titan ven biển; nghiên cứu quy trình xác định các nguyên tố TiO2, Cr, Mg, Ca, Mn, C trong xỉ titan; Nghiên cứu công nghệ nấu luyện và đúc bằng phương pháp ly tâm hợp kim đồng và các đề tài khác… Các đề tài cấp cơ sở có tổng giá trị 954 triệu đồng, như nghiên cứu tuyển mẫu quặng sắt Quý Sa, nghiên cứu mẫu quặng sắt Làng Vinh, tuyển mẫu quặng Vân Hoà – Phú Yên. Các dự án sản xuất cấp Bộ với tổng kinh phí 1.600 triệu đồng, sản xuất thử nghiệm dây hợp kim thiếc hàn bằng phương pháp gia công lực, sản xuất thử nghiệm điện cực hàn từ hợp kim đồng
bền nhiệt hệ Cu-Cr-Cz. Đã thực hiện các dự án tư vấn cấp Bộ với tổng kinh phí hơn 3 tỷ đồng. Công tác tư vấn thiết kế với doanh thu 9, 147 tỷ đồng. Các hội viên của Chi hội đã viết 6 bài cho Tạp chí Công nghiệp mỏ, viết 10 báo cáo cho Hội nghị khoa học kỹ thuật mỏ toàn quôc lần thứ XX tại Vũng Tàu, sinh hoạt và đóng hội phí theo đúng quy định của Hội.
12-
Chi hội cơ quan Tổng công ty khoáng sản:
Năm 2009, Chi hội mỏ Cơ quan Tổng công ty khoáng sản hoạt động chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: a) Về nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ mới vào sản xuất mỏ: phối hợp với Cty Tư vấn Đầu tư mỏ và công nghiệp thực hiện dự án “Khai thác mở rộng và nâng công suất khu mỏ - tuyển đồng Sin Quyền”; cùng với Viện KHCN Mỏ thực hiện các đề tài “Lập bản đồ nham thạch cho mỏ đồng Sin Quyền, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật mỏ cho toàn Tổng công ty, nghiên cứu hoàn thiện các thông số và công nghệ khoan nổ mìn phù hợp đặc điểm tự nhiên - kỹ thuật mỏ của Công ty Mỏ - Tuyển đồng Sin Quyền, dự án đầu tư khai thác và chế biến quặng sắt Kíp Tước – Lào Cai; cùng với Viện KH&CN mỏ - Luyện kim thực hiện Dự án khai thác - tuyển và luyện vàng gốc, mỏ vàng Minh Lương – Lao Cai. Các đề tài nêu trên đã được nghiệm thu và đưa vào áp dung trong sản xuất đưa lại hiệu quả kinh tế cao. b)Đã tổ chức tư vấn, thẩm định các dự án: “Đầu tư khai thác và chế biến vàng gốc Apey A Quảng Trị”, dự án đầu tư khai thác - chế biến quặng đất hiếm thân quặng F3 mỏ Đông Pao, dự án ĐTXDCT khu Liên hợp gang thép Lào Cai, dự án đầu tư khai thác chế biến quặng sắt Nà Lũng – Cao Bằng, dự án chế biến quặng sắt Nà Rụa – Cao Bằng, dự án đầu tư khai thác và chế biến quặng titan Na Hoe và một số dự án quan trọng khác. Tham gia các hoạt động chung của Hội: Viết bài cho Tạp chí Công nghiệp mỏ, viết báo cáo và tham gia báo cáo tại hội nghị, ủng hộ kinh phí cho Hội nghị khoa học kỹ thuật mỏ toàn quốc lần thứ XX, tổ chức sinh hoạt định kỳ và đóng hội phí đầy đủ.
13-
Chi hội Công ty than Mạo Khê:
Trong điều kiện sản xuất của Công ty ngày càng khó khăn như: Các diện khai thác xuống sâu, không tập trung, cấp độ thăm dò thấp, chất lượng than xấu, điều kiện địa chất phức tạp, Chi hội đã tham mưu cho Giám đốc Công ty không ngừng đưa tiến bộ kỹ thuật và công nghệ khai thác mới vào phục vụ
sản xuất nhằm mục tiêu nâng cao sản lượng, năng suất lao động, đảm bảo an toàn và cải thiện làm việc cho công nhân mỏ, giảm giá thành khai thác, nâng cao thu nhập cho người lao động, đặc biệt ưu tiên phát triển và áp dụng những công nghệ khai thác thân thiện với môi trường, điển hình là:
a)Đối với việc đào lò chuẩn bị: Để đào chống lò, công ty đã đưa vì chống sắt vào thay thế vì chống gỗ trong các đường lò than; chống tăng cường lò dọc vỉa than bằng cột thuỷ lực đơn DZ-22 kết hợp xà hộp HDFBC-2400 hoặc xà khớp HDJB- 1000 để thay khuôn gỗ bước đầu thu hiệu quả rõ rệt. Về lò đá: Tiếp tục triển khai ứng dụng chống lò bằng vì neo chất dẻo cốt thép, neo bê tông cốt thép kết hợp bê tông phun tại một số đường lò để thay thế dần vì chống thép nhằm giảm chi phí đào lò. Tổ chức sử dụng tốt 02 máy khoan tự hành TAMROCK để rút ngắn công đoạn khoan trong quá trình đào lò. Phối hợp với chuyên gia Nhật Bản đưa vào hoạt động máy xúc tự hành lật hông, máy khoan 2 choòng với khả năng cơ động cao góp phần nâng cao tốc độ đào lò đá bằng phương pháp khoan nổ mìn; trong việc khoan tháo nước, xử lý đào lò qua phay FA bằng máy khoan RPD-75, chuẩn bị mở các diện khai thác của tầng -80 xuống -150m.
b) Đối với công nghệ khai thác than: Tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các phương pháp mở vỉa hợp lý để chuyển đổi từ khấu đuổi sang khấu dật, tạo điều kiện cho cơ giới hoá, áp dụng hệ thống khai thác chia lớp ngang nghiêng sử dụng giá thuỷ lực, lò chợ dài nghiêng thu hồi than nóc tiết kiệm tài nguyên.
c) Đối với công tác thông gió và quản lý khí mỏ: Công ty đã từng bước nâng cấp cải tạo hệ thống thông gió chính phục vụ khai thác xuống sâu; đã ứng dụng có hiệu quả phần mềm tính toán thông gió VENSIM của Australia, để kiểm soát việc điều tiết lưu lượng gió trong từng đường lò đạt kết quả tốt. Công ty luôn duy trì và đảm bảo hoạt đông song hành hai hệ thống quan trắc và cảnh báo khí mê-tan tự động của Ba Lan và Nhật Bản.
Công ty cũng đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào các khâu vận tải, sàng tuyển để nâng cao chất lượng than.
Chi hội có 144 sáng kiến, hợp lý hoá sản xuất với số tiền làm lợi cho doanh nghiệp gần 10 tỷ đồng, được số tiền thưởng là 100 triệu đồng.
14-
Chi hội Công ty CP cơ khí Mạo Khê:
Năm 2009, Chi hội đã tích cực hoạt động, đi sâu khảo sát, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật áp dụng trong việc thiết kế, cải tiến các thiết bị phục vụ cho việc tăng năng suất lao động các khâu khai thác, vận chuyển và chế biến than, thể hiện trên một số mặt chính sau đây:
a) Chi hội đã tham mưu cho Lãnh đạo Công ty
nghiên cứu đưa các công nghệ sửa chữa, đại tu thiết bị vận tải, khai thác than như máy xúc đá, máy cào vơ, tàu điện mỏ AM-8 và các thiết bị chuyên dùng khác.
b) Thiết kế, chế tạo các thiết bị vận chuyển than, đá có năng suất cao phục vụ vận tải trong lò cho các Công ty khai thác than như Đồng Vông, Khe Chàm và nhiều đơn vị của Tập đoàn, triển khai công nghệ chế tạo dàn cầu băng tải ống tuyến băng tải than từ xưởng sàng 56 đến cảng Bến Cân cho Cty than Mạo Khê.
c) Thiết kế và chế tạo hệ thống sàng tuyển than chất lượng cao cho các Công ty, Xí nghiệp sản xuất than.
d)Trong năm Chi hội có đã có 63 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất trong các lĩnh vực thiết kế, chế tạo sản phẩm mới, đổi mới công nghệ chế tạo các loại sản phẩm, an toàn lao động và mang lại hiệu quả cao.
15-
Chi hội Công ty Vật tư, Vận tải và Xếp dỡ :
Các hội viên của Chi hội đã làm tốt công tác vận động và tham gia phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong quá trình sản xuất và kinh doanh của đơn vị. Kết quả đã thực hiện được 111 sáng kiến với tổng giá trị làm lợi trên 1,7 tỷ đồng. Trong đó có đã tập trung vào giải quyết các đề tài có tính then chốt là:
Nghiên cứu lắp đặt thử nghiệm hệ thống cấp phát xăng dầu tự động PLC cho các cột cấp xăng dầu, theo dõi trực tuyến bằng thẻ chíp điện tử nhận diện phương tiện khi vào nhận nhiên liệu. Nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, giám sát hoạt động của phương tiện vận tải thuỷ, bộ bằng hệ thống định vị toàn cầu GPS.
16- Chi hội Công ty Kho vận và Cảng Cẩm Phả:
Năm 2009 là năm có nhiều biến động trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty, trong tình hình đó việc tham gia tích cực của Chi hội đã tham mưu tư vấn cho Lãnh đạo Công ty trong tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị… đã góp phần thiết thực vào việc hoàn thành kế hoạch của Công ty. Chi hội đã làm tốt nhiệm vụ đưa khoa học, công nghệ vào quản lý sản xuất, thể hiện trên các mặt sau:
a) Tư vấn trong lĩnh vực đầu tư phát triển công nghệ:
Chủ động lập phương án quy hoạch các cụm cảng Km-6 và Khe Dây- Mông Dương làm cơ sở cho việc phát triển các Cảng nội địa; tư vấn bố trí sắp xếp các Trạm than, kho than phù hợp với mô hình tổ chức sản xuất của Công ty; cải tạo, sửa chữa hệ thống thiết bị, phương tiện vận tải để đáp ứng yêu cầu sản xuất, tiêu thụ than. Thay thế các đèn HD trên các Đăng tiêu bằng đèn LED.
Tiếp tục áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý như áp dụng phần mềm quản lý vật tư, nhân sự, phần mềm kế toán, phần mềm quản lý văn bản.
b) Tư vấn trong lĩnh vực quản lý phương tiện thiết bị: Chi hội đã đề xuất việc nâng tải cho các xe tải mới nhận, tham mưu việc sưa chữa, cải tạo xe máy thiết bị, phù hợp với các quy định quản lý; soạn thảo đề nghị Giám đốc ban hành lại Quy định về vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa, thiết bị cơ điện vận tải, định mức nhiên liệu cho máy móc thiết bị và 5 tập định mức kỹ thuật và tập Nội quy an toàn áp dụng trong Công ty.
c) Tư vấn trong lĩnh vực an toàn - vệ sinh lao động - bảo vệ môi trường: đã soạn thảo giáo trình huấn luyện an toàn cho các ngành nghề làm cơ sở huấn luyện an toàn định kỳ cho công nhân, thực hiện tốt công tác tự kiểm tra, tư vấn trong lĩnh vực vận hành thiết bị đảm bảo an toàn và thực hiện các giải pháp cải thiện điều kiện làm việc bảo vệ sức khoẻ cho công nhân.
d) Chi hội làm nòng cốt trong việc phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, trong năm đã được công nhận 122 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật với giá trị làm lợi 20 tỷ đồng, được trích khen thưởng 170 triệu đồng.
16-
Chi hội Công ty than Khe Chàm:
Năm 2009, Công ty phải tập trung mọi nguồn lực để khắc phục hậu quả do sự cố nổ khí mêtan ngày 8/12/2008, chuyển đổi xếp hạng từ mỏ loại II lên loại III về độ xuất khí và đặc biệt là Công ty đang khai thác xuống sâu nên gặp nhiều khó khăn, nguy cơ mất an toàn về áp lực mỏ, khí mỏ và điều kiện địa chất biến đổi phức tạp. Với 24 hội viên hầu hết đều là các chuyên gia đầu ngành kinh tế, kỹ thuật của Công ty làm nòng cốt trong việc áp dụng KHCN mới vào sản xuất kinh doanh của Công ty.
Về công tác đào lò: Chi hội đã tham mưu cho Giám đốc tiếp tục thực hiện các phương án khai thông mới để tạo các block khấu than có chiều dài lò chợ ổn định theo phương, vận tải than liên tục từ lò chợ lên mặt bằng sân công nghiệp +32 đã góp phần nâng cao sản lượng lò chợ; chuẩn bị tài nguyên sẵn sàng cho năm 2010, chuẩn bị kịp thời được diện lò chợ cơ giới hoá 13.1a-3 mức – 144
và lò nối vận chuyển giàn chống từ 13.1 sang 13.1a; đào hệ thống lò chuẩn bị sản xuất của vỉa 12, 13.1, 13.2, 14.5 trong điều kiện khó khăn về thông gió, địa chất phức tạp, phay phá lớn, và vận chuyển nguyên vật liệu để khai thông để chuẩn bị và tăng thêm điện sản xuất. Đưa neo chất dẻo vào áp dụng tại các vỉa 13.2, lò DVTG 13.2–6.1, lò DVVT 13.2-6.1 với tổng số mét lò neo đến 345m.
Về công tác khai thác: duy trì và nâng cao năng suất lò chợ thuỷ lực đơn, phát huy tốt công nghệ trải lưới nóc, kiểm soát áp lực cột chống, chủ động thay các cũi lợn gỗ bằng các cột thuỷ lực đơn tăng cường ở luồng bảo vệ làm tăng khả năng chịu tải của vì chống để có không gian làm việc an toàn. chủ động đưa các cột chống có chiều cao hợp lý phù hợp với điều kiện vỉa than, đưa cột DW20 vào chốn giữ lò chợ 14.2-1.1. Về cơ giới hoá khai thác đã chủ động điều chỉnh biểu đồ tổ chức sản xuất CGH kêt hợp khoan nổ mìn để làm giảm độ cứng của than, chủ động tháo khí để tăng cường an toàn trong khai thác, đảm bảo duy trì ổn định và an toàn thiết bị khai thác. Chi hội đã tham mưu cho Lãnh đạo doanh nghiệp tính toán lại trụ bảo vệ, khai thác tận thu và thực hiện tốt công tác quản lý tài nguyên.
Phong tráo sáng kiến được phát huy tốt đã có 165 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và ý kiến có lợi với tổng số tiền làm lợi 14,8 tỷ đồng.
17- Chi hội Trường CĐCN Sao Đỏ:
Trong năm 2009, Nhà trường có 7 ngành đào tạo cao đẳng và 10 ngành đào tao trung cấp chuyên nghiệp; Chi hội đã tham mưu cho Lãnh đạo nhà trường hoàn thành tốt các nghiệm vụ từ công tác tuyển sịnh, tổ chức và quản lý chất lượng đào tạo, quản lý học sinh, sinh viên. Nhà trường đã tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên; trong năm có 34 giảng viên tốt nghiệp thạc sỹ, 65 giảng viên thi đỗ học cao học và 16 giảng viên làm nghiên cứu sinh; có 113 giảng viên dạy giỏi cấp trường, 53 giảng viên đạt danh hiệu Chủ nhiệm giỏi, có 2 giảng viên đạt giải nhì và 4 gv đạt giải 3 tạo hội thi giáo viên dạy giỏi toàn quốc.
Nhà trường đã làm tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, chế tạo thiết bị, đồ dùng dạy học, bổ sung cơ sở vật chất phục vụ đào tạo. trong năm đã thực hiên 1 đề tài cấp Bộ, 16 đề tài cấp cơ sở, 129 thiết bị và đồ dùng dạy học. Trong năm, nhà trường đã mua sắm 5,9 tỷ đồng thiết bị, in ấn 95 giáo trình
với 128.000 cuốn và đầu tư nhiều hạng mục công trình phục vụ đào tạo học sinh, sinh viên.
18- Chi hội Công ty CP KD than Miền Bắc:
Trong năm 2009, do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu tình hình mua bán than diễn biến phức tạp, với những cố gắng chung Chi hội đã đề xuất và tham mưu cho Giám đốc Công ty thực hiện các giải pháp ổn định và mở rộng thị trường tiêu thụ than, đảm bảo việc làm cho người lao động và đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch được Tập đoàn giao; đạt doanh thu 3219 tỷ đồng, đạt 134% kế hoạch, giá trị sản xuất 186 tỷ đồng, đạt 153% kế hoạch và lợi nhuận đạt 124%
kế hoạch năm, thu nhập bình quân 7,934 triệu đồng/người, tháng.
19- Chi hội XN thăm dò khảo sát thiết kế-VVMI:
Năm 2009, với 32 hội viên bao gồm các cán bộ chủ chốt, chi hội đã tham mưu cho Giám đốc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ chính sau: Hoàn thành 10 công trình tư vấn - thiết kế trong lĩnh vực khai khoáng, tạo điều kiện cho Hội viên tham gia các hội nghị khoa học của ngành. Tuy số lượng hội viên không nhiều nhưng chi hội đã có 3 bài báo chuyên môn được đăng trên Tạp chí Công nghiệp mỏ của Hội và một báo cáo khoa học được in trong Tuyển tập báo cáo khoa học tại Hội nghị KHKT mỏ toàn quốc lần thứ 20 tại Vũng Tàu. Chi hội cũng đã vận động hội viên chấp hành tốt Điều lệ của Hội và tạo điều kiện để hội viên phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất.
20- Chi hội Chi nhánh than Núi Hồng:
Chi hội có 62 hội viên hầu hết là cán bộ chủ chốt của Chi nhánh; do yêu cầu của nhiệm vụ, nhiều hội viên phải hoạt động trên những địa bàn ở xa như mỏ Khánh Hoà, mỏ Na Dương. Trong năm Chi hội đã tham mưu cho Giám đốc hoàn thành vượt mức kế hoạch bốc đất, khai thác than nguyên khai, than sạch, tiêu thụ than và vận chuyển than cấp cho Nhà máy Điện. Ngoài ra Chi nhánh còn sản xuất gạch chỉ đỏ. Đền bù giải phóng mặt bằng để có diện khai thác tại than thấu kính III.
Năm 2009, hội viên của Chi hội có 26 sáng kiến, có giá trị làm lợ 328,4 triệu đồng và dược thưởng sáng kiến 18 triệu đồng.
21- Chi hội Công ty Kho vận Đá Bạc:
Là đơn vị được Tập đoàn giao nhiệm vụ chủ yếu là thu mua than của các Công ty khai thác để xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, năm 2009 Công ty đã thực hiện thu mua được trên 7,3 triệu tấn, xuất khẩu trên 5 triệu tấn và tiêu thu nội địa gần 3 triệu tân. Chi hội đã tham mưu cho Giám đốc Công ty đầu tư phát triển 11 công trình trong đó có n hững công trình quan trọng như đường sắt đôi cỡ 1000mm Lán Tháp – Uông Bí, ga Uông Bí, đường dây 35 kv Uông Bí - Điền Công phục vụ cho việc nâng cao năng lực chế biến, nâng cao năng suất bốc rót than, đặc biệt là hai dự án quy hoạch, đầu tư hiện đại hoá hai cảng Điền Công và Bến Cân phục vụ chế biến, tiêu thụ lớn hơn trong n hững năm tới.
Chi hội giữ vững sinh hoạt định kỳ và trong năm qua đã kết nạp được 12 hội viên mới nâng tổng số lên 78 hội viên của Chi hội.
Chi hội cũng đã nghiên cứu áp dụng KHCN trong việc xây dựng các hạng mục quan trọng như đường sắt Vàng Danh - Điền Công chiều dài 18,5 km trong khi dốc đến 20%o với nhiều đường cong có bán kính nhỏ trái chiều lại đi qua nhiều khu dân cư và đường dân sinh cắt ngang; công ty cũng áp dụng công nghệ nanô, công nghệ tẩy rửa, công nghệ lọc gió sơ bộ là những công nghệ hiện đại để tiết kiệm chi phí sản xuất và nâng cao mức độ an toàn và bảo hộ lao động cho công nhân.
Trong năm chi hội có 30 sáng kiến, trong đó có sáng kiến thiết kế, chế tạo bàn ép băng làm lợi trên 100 triệu đồng.
22- Chi hội Viện Khoa học công nghệ mỏ:
Trong năm 2009 đã có những hoạt động thiết thực đóng góp tích cực trong công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và xây dựng chi hội vững mạnh.
Chi hội Viện KHCN mỏ hiện có 45 hội viên, thành phần chủ yếu bao gồm các cán bộ có trình đội Tiến sĩ (11), thạc sĩ (13), kỹ sư (21) sinh hoạt tại các đơn vị Văn phòng Viện, Trung tâm An toàn mỏ, Trung tâm Vật liệu nổ công nghiệp, Công ty Phát triển Công nghệ và Thiết bị mỏ. Các ngành nghề chủ yếu là Công nghệ khai thác mỏ hầm lò, lộ thiên, Công nghệ than sạch, Tuyển khoáng – Luyện kim, An toàn mỏ, Điện tự động hoá, Kinh tế mỏ, Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả và Xây dựng mỏ v.v... Được sự quan tâm của Lãnh đạo Viện, Chi hội đã tạo điều kiện cho các hội viên việc làm và đặc biệt tạo điều kiện để các hội viên tham gia hoạt động Hội, thực hiện các đề tài khoa học và viết nhiều bài báo cho tạp chí của Hội, tạo điều kiện kinh phí để các hội viên của Hội tham gia các hoạt động do Trung ương Hội tổ chức. Viện đã cử gần 30 đại biểu đi dự Hội nghị khoa học tại Vũng Tàu và các hoạt động khác như dự các trĩên lãm khoa học các hội thi của Liên hiệp các hội KHKT Việt nam.
Về hoạt động Khoa học Công nghệ
:
Chi hội đã tham mưu cho Lãnh đạo Viện tiếp tục hoàn thiện và nghiệm thu dứt điểm các dự án SXTN; đề tài cấp Nhà nước, cấp bộ, cấp TKV đã giao từ năm trước, thực hiện nhiệm vụ giao năm 2009 đạt doanh thu 441,5 tỷ đồng: Các đề tài, dự án
: N/c lựa chọn công nghệ cơ giới hoá khi thác các vỉa dày dốc 45
0
tại các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh. Lựa chọn công nghệ cơ giới hoá khai thác và thiết kế chế tạo loại dàn chống tự hành phù hợp áp dụng đối với điều kiện địa chất các vỉa dày dốc đến 35
0
tại vùng Quảng Ninh
;
Lắp đặt và đưa vào vận hành 13 hệ thống giám sát khí CH
4
tại các mỏ hầm lò Quảng Ninh; Sản xuất thử nghiệm nhũ tương nền để sản xuất thuốc nổ nhũ tương rời phục vụ khai thác mỏ lộ thiên; Triển khai chống giữ trên 500m lò dọc vỉa than bằng neo chất dẻo tại một số mỏ hầm lò Quảng Ninh; Tham gia liên danh thiết kế chế tạo dây chuyền tuyển Bauxite tại Tân Rai (Lâm Đồng);
Tiến hành gói thầu đầu tư
cơ giới hoá khai thác tại mỏ than Nam Mẫu; Tiến hành gói thầu EPC về cơ giới hoá vận chuyển người và thiết bị tại các giếng nghiêng mỏ Hà Lầm, mỏ Nam Mẫu v.v…
Về hoạt động sinh hoạt Hội: Chi hội tiếp tục ổn định hoạt động, động viên hội viên của Chi hội tích cực nghiên cứu, viết các bài báo gửi đăng trên tạp chí Công nghiệp mỏ - Nhân dip Hội nghị khoa học lần thứ XX tại Vũng Tàu, Chi
hội đã vận động gần 30 lượt người viết 35 bài báo và được chọn đăng trong tuyển tập. Hội viên chi hội là những nòng cốt gửi bài cho tạp chí Công nghiệp mỏ. Hội viên của chi hội đã tham gia tích cực tham gia các cuộc Hội thảo của Hội như Luật khoáng sản sửa đổi, các đề tài của Hội. Chi hội thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến Điều lệ hội về nghĩa vụ và trách nhiệm hội viên và đóng Hội phí đầy đủ. |